Đá quý và cuộc sống


Nguồn gốc thành tạo các mỏ đá quý liên quan đến quá trình biến chất

24/12/2020

Có 2 kiểu biến chất là biến chất khu vực và biến chất tiếp xúc.

Kiểu biến chất chủ yếu là biến chất khu vực. Tuy nhiên lại ít có ý nghĩa đối với các nhà đá quý học vì có ít loại đá quý được thành tạo từ quá trình này. Kiểu biến chất này liên quan đến sự vận động mạnh và chìm xuống sâu của các khu vực rộng lớn của vỏ Trái đất, sinh ra nhiệt độ và áp suất cao00 từ hàng chục km lớp đá nằm trên, hoặc nhiệt độ và áp suất kèm theo các quá trình tạo núi trong vỏ Trái đất đã gây nên những biến đổi rất to lớn: đất cát biến thành quartzit, đá vôi biến thành đá hoa…

Hình 1: Đá hoa Marble biến chất từ đá vôi

Trong quá trình này các khoáng vật được sinh ra trong trạng thái rắn. Những lớp đá trầm tích sét biến thành đá phiến mica với những khoáng vật mới như: Garnet, Kyanit… tuy nhiên chúng ít khi có chất lượng đá quý.

Hình 2: Đá sét biến chất thành đá phiến mica với những tinh thể Garnet màu đỏ

Ngoài ra, những lớp phun trào bazan có thể biến chất thành những khối ngọc cẩm thạch (Jadeit), điển hình là mỏ đá bazan ở Myanmar.

Hình 3: Khối ngọc cẩm thạch Jadeit xuất xứ Myanmar

Kiểu biến chất có ý nghĩa quan trọng nhất đối với việc hình thành đá quý là kiểu biến chất tiếp xúc. Trong đó các đá đã được hình thành trước đó bị “nướng” bởi sự xâm nhập của các dung dịch phát sinh từ lò magma đã làm cho các đá tái kết tinh. Trong quá trình này, các tạp chất có trong đá có thể tích tụ lại và hình thành các khoáng vật mới. Ví dụ như Corindon, Spinel, và cá khoáng vật khác trong đá hoa…

Hình 4: Tinh thể Ruby nằm trong đá hoa

Hình 5: Tinh thể Spinel nằm trong đá hoa

Hình 6: Tinh thể Ruby nằm trong đá biến chất Zoisite

Tóm lại, quá trình biến chất thành tạo nên rất nhiều các loại đá quý. Nổi bật trong số đó gồm có: Ruby, Saphir, Spinel, Jadeit, Pargasit, Garnet, Kyanit, Iolit, Chrysoberyl…