Là tên dùng để chỉ loại biến thể vi tinh của thạch anh và đã được sử dụng từ rất xa xưa bởi có màu sắc hấp dẫn, độ cứng khá lớn được dùng để trang trí và trạm khắc. Tên canxedon có lẽ được bắt nguồn từ chữ calxedon hoặc calchedon một cảng biển cổ vùng Marmara, ở đây đầu tiên người ta khai thác canxedon và dùng cho mục đích trang trí và đã từng là trung tâm buôn bán đá quý thời đó.
1. Thành phần hoá học và cấu trúc tinh thể
-
Tinh hệ : Sáu phương giống thạch anh nhưng thường ở dạng ẩn tinh.
-
Thành phần hoá học: SiO2.
2. Các tính chất vật lý và quang học
2.1. Các tính chất vật lý
-
Độ cứng : 6,5 - 7
-
Tỷ trọng : 2,58 - 2,64
-
Cát khai : Không
-
Vết vỡ: Không bằng phẳng, dạng vỏ sò.
2.2. Tính chất quang học:
-
Màu sắc: Màu sắc đặc trưng là lam xám trắng và màu này thường bao phủ toàn bộ viên đá giống như của jasper. Các loại màu có giá trị và được ưa chuộng hơn là vàng nâu nhạt (sard), đỏ (carnelian), đen và lục (chrysopas), trắng và đen hoặc trắng và xám (onyx) với độ trong suốt từ bán trong tới đục.
-
Chiết suất : 1,530 - 1,539
-
Độ tán sắc : Không
-
Tính đa sắc : Không
-
Phát quang : Xanh lơ
-
Phổ hấp thụ : Loại nhuộm màu xanh thường có phổ tại 6270, 6600 - 6900.
3. Đặc điểm một số biến thể chính:
-
Carnelian: Là biến thể màu đỏ của canxedon, đôi khi chúng có màu đỏ nâu hoặc màu cam đậm. Nguyên tố tạo màu thường là sắt (Fe3+), màu của carnelian có thể được xử lý nhiệt. Các khu vực khai thác chủ yếu là Brasil, Ấn Độ và Uruguay. Đa số carnelian trên thị trường hiện nay là loại agat nhuộm màu sau đó được xử lý nhiệt. Loại carnelian tự nhiên thường có màu đỏ với các đám mây của màu.
-
Sard: Cũng là biến thể màu nâu đỏ tới nâu của canxedon (nhưng so với carnelian thì màu của sard thường đậm hơn và nâu hơn). Loại tự nhiên cũng thường hiếm, đa số sard trên thị trường hiện nay là do nhuộm màu.
-
Chrysopas: Là loại canxedon có màu lục. Nguên tố tạo màu thường là niken (Ni). Ngoài cấu trúc ẩn itnh, đôi khi chrysopas có cấu trục sợi. Khi bị đốt nóng màu của chrysopas sẽ bị nhạt đi nhưng sau đó có thể tự hồi phục ở điều kiện nhiệt độ bình thường. Các khu vực khai thác chủ yếu là Australia, Brasil, Ấn Độ, Madagasca, Nam Phi,...
-
Bloodstone (Đá máu): Là loại canxedon có màu lục với các đốm và sọc dải màu đỏ. Màu lục thường là do các bao thể clorit hoặc các bao thể thuộc nhóm horblen. Màu đỏ được tạo ra do sắt. Các khu vực khai thác chủ yếu là Ấn Độ, Brasil, Trung Quốc,...
-
Agat: Agat là tên gọi loại canxedon có cấu trúc màu dạng dải, sọc. Tên agat có xuất xứ từ tên sông Archtes vùng Sicily (Italia). Trong cấu trúc của agat, đôi khi một số phần đã chuyển sang opan. Trong cấu trúc của agat ta thường quan sát được các vi tinh của thạch anh mọc vuông góc với cấu trúc dạng lớp của agat. Agat thường bán đục, tuy nhiên ở dạng các lớp mỏng ta có thể thấy chúng bán trong. Màu của agat tự nhiên thường mờ, ranh giới giữa các màu thường không rõ rang và người ta thường dung phương pháp nhuộm màu để cho agat có màu sống động hơn. Bằng việc sử dụng các hoá chất nhất định cùng với xử lý nhiệt người ta có thể tạo ra các lớp màu theo ý muốn.
-
Agat dạng cành cây (Dendritic Agate): Là loại canxedon có màu trắng hoặc trắng xám với các cấu trúc dạng cành cây, do sự tập trung của các nguyên tố sắt hoặc mangan có màu nâu (nếu là sắt) hoặc màu đen (nếu là mangan).
-
Agat dạng rêu (Moss Agate): Là tên gọi của loại canxedon không màu, bán trong có chứa các bao thể horblen hoặc clorit màu lục và trông rất giống dạng rêu mờ.
-
Onyx: Là loại canxedon có hai lớp màu với phần nền có màu đen và lớp bên trên có màu trắng, hoặc là tên gọi loại canxedon có màu đen. Khi màu của phần nền thay đổi thì chúng có các tên gọi khác nhau tương ứng, ví dụ sard onyx (phần nền có màu nâu và lớp trên có màu trắng); cornelian onyx (phần nền có màu đỏ và phần trên có màu trắng),…
-
Jasper: Jasper là tên gọi loại biến thể nằm giữa thạch anh và canxedon (đôi khi chúng được xếp vào nhóm canxedon, đôi khi chúng được xếp vào nhóm thạch anh), hoặc ta có thể gọi chúng là loại canxedon có cấu trúc hạt. Trong thực tế chúng thường phát triển cùng với agat hoặc opan.
4. Mài cắt
Các loại canxedon đều được cắt cabochon, hoặc chạm khắc và dùng làm mặt dây chuyền và một số đồ nữ trang khác. Ngày xưa canxedon được dùng chủ yếu để chạm khắc các loại tượng nhỏ, ly rượu, bình đựng rượu lễ. Agat và onyx được dùng để chạm khắc các loại cameo do chúng thường có các đới màu khác nhau rất hấp dẫn.
5. Dấu hiệu nhận biết
Phân biệt dựa trên các đặc tính phân đới của màu, có độ cứng trung bình và ánh. Tỷ trọng khá thấp (2,61) độ cứng (6,5) nhỏ hơn các loại thạch anh khác. Canxedon rất dễ nhầm với một số loại đá quý bán trong tới đục như nefrit, jadeit, malachit, lapi-lazuli, moonstone, amazonit, turquois. Phân biệt với amazonit bởi tính cát khai và ánh, cũng có thể dùng chiết suất để phân biệt (amazonit có chiết suất thấp hơn - 1,52).
6. Nguồn gốc và phân bố
Được khai thác nhiều ở Urugoay ở khu vực biên giới với Braxil và ở một số khu vực khác.
Agat được khai thác nhiều ở Đức, chryropase cũng được khai thác nhiều ở Đức, Nga và Mỹ ...
Ở Việt Nam một số năm gần đây canxedon được khai thác rất nhiều tài một số tỉnh thuộc Tây Nguyên. Canxedon thường có nhiều màu khác nhau (nâu, vàng, lục, xám, trắng,...) đôi khi cũng có các sọc dải màu hoặc đới màu. Loại canxedon đã chuyển sang opan hoặc agat thực thụ thì rất hiếm, thực chất chúng vẫn chỉ là canxedon. Canxedon được khai thác và chế tác ở các hình thù khác nhau dùng làm đá cảnh và đá trang trí.
7. Giá trị
Tuỳ thuộc vào màu sắc và độ trong mà chúng có giá trị khác nhau. Loại có giá trị cao hơn cả là chrysopas, agat.
8. Giả và tổng hợp
Ngày xưa canxedon được làm giả bởi thuỷ tinh, không được tổng hợp trong công nghiệp.
TS. Phạm Văn Long